THIÊN THANH NÊ là loại khoáng tử nê tốt nhất và được nhiều người biết đến trong các loại khoáng Tử nê. Trong "Nghi Hưng huyền chí" năm Quảng Hưng thứ tám đời nhà Thanh có ghi lại: "Quặng có màu vàng hoặc xanh sẽ được giữ lại. Quặng đất sét Thiên thanh nê là loại quặng đắt tiền trong các loại quặng, được đặc biệt sử dụng để chế tác ấm trà còn loại quặng màu vàng sẽ được sử dụng để làm chum vại". Bản chất và đặc tính của Thiên thanh có thể hiểu được từ những ghi chép này. Thiên thanh nê là "loại khoáng tuyệt vời trong các loại khoáng", nhưng rất khó để tìm ra dấu vết của nó.
Về vấn đề lịch sử “khoáng tử sa”, hiện đang có nhiều ý kiến khác nhau. Trước hết, có nhiều ý kiến khác nhau về thế nào là "Thiên thanh":
- Một quan điểm cho rằng thiên thanh giống như bầu trời sau khi mưa và trời quang đãng (Hình 4-7) nên được gọi như vậy;
- Một quan điểm khác cho rằng "Thiên Thanh" là màu tương tự như màu thuốc nhuộm Thiên Thanh, và nó được gọi như vậy. Theo định nghĩa về màu sắc Thiên Thanh, "Ciyuan", trang 371 cho biết: màu xanh, tên một loại màu nhuộm, là màu đen đậm và hơi đỏ, còn được gọi là màu xanh đậm lẫn với màu đỏ.
Thứ hai, cái gọi là thiên thanh nê là màu của đất quặng nguyên thủy hay màu của đồ gốm sau khi nung? Hầu hết mọi người đều tin rằng khoáng đất sét ở thời nhà Minh và nhà Thanh là dựa trên hình dạng và màu sắc của đất quặng nguyên thủy, vì hầu hết những người thợ khai khoáng thời xưa đều không biết chữ, họ chỉ có thể lấy phong cảnh, màu sắc tự nhiên để định nghĩa. Cho nên "Thiên Thanh" phải là màu sắc của đất quặng nguyên thủy.
Một số ý kiến cho rằng Tử nê thời nhà Minh và nhà Thanh dựa trên hình dáng và màu sắc của đồ gốm tử nê sau khi nung. Bởi vì nghệ nhân chế tác là những người chuyên nghiệp hơn, họ có thể miêu tả chính xác đặc điểm bản chất của sự vật. Ai đúng? Có thể người khai khoáng và nghệ nhân chế tác ấm có cách hiểu khác nhau và mô tả khác nhau.
Trong "Dương Tiện minh hồ hệ" của Chu Cao Khởi có viết: "Thiên thanh nê, khai thác ở vùng Lê Dã, đồ gốm sau khi nung có màu màu gan sẫm (ảm can sắc)." Thiên thanh nê trong các ghi chép thời xưa thường miêu tả hình dáng và màu sắc của các tác phẩm bằng tử sa sau khi nung. Người ta nói rằng chiếc ấm Đề lương hồ do Thiệu Húc Mậu, một nghệ nhân ấm tử sa nổi tiếng trong thời Càn Long của nhà Thanh (xem Hình 4-8), làm ra, được gọi là "Thiên thanh nê".
Vậy có loại quặng thô nào "giống như bầu trời sau cơn mưa và trời quang mây tạnh" sau khi nung trở thành đồ gốm giống màu tím “ảm can sắc” (màu gan đậm)? Tử nê đáy tào thanh phù hợp với hai đặc điểm trên. Đáy tào thanh và một phần quặng sâu của Tử nê bị không khí xâm nhập lâu ngày và một số vật liệu khoáng có vẻ "Thiên thanh" khi chúng vừa được khai thác.
Như trong hình 4-9, nó là quặng đáy tào thanh nguyên bản, bề ngoài của nó là màu lục lam tím, màu tím pha tím, màu xanh lam, quặng có đặc điểm gọi là bầu trời sau mưa và trong xanh, sau khi nghiền và trộn với nước sẽ trở thành màu tím hoặc nâu tím, ở nhiệt độ nung, màu sau khi nung cũng phù hợp với “màu gan sẫm” được ghi trong sách cổ. Vì hầu hết các khoáng thô khác không có các đặc điểm như vậy nên chúng không thể là Thiên Thanh nê. Người ta tin rằng khoáng Thiên thanh nê trong lịch sử là vật liệu khoáng tương tự như Đáy tào thanh. Những loại khoáng đất sét khác có màu Thiên thanh như "bầu trời sau cơn mưa" nhưng sau khi nung lại không sẫm màu và có màu đỏ, nên có người nói rằng khoáng "Thiên thanh nê" đã tuyệt chủng. Cái gọi là "Thiên thanh nê" được nhiều người trong nghề trưng bày hoặc là "màu quặng nguyên thủy" trông giống như bầu trời trong xanh (Hình 4-10), hoặc "màu của đồ gốm sau nung" trông giống như màu bầu trời trong vắt.
Không ai có thể chắc chắn loại khoáng chất được ghi trong sách cổ là loại khoáng chất nào, và tất cả đều khẳng định quan điểm của mình là đúng. Nhưng có hai điểm chắc chắn: Một là Thiên thanh nê là một loại khoáng tử nê được tạo ra trong một khoáng tầng đặc biệt, Hai là nó có "màu gan sẫm" (ảm can sắc) sau khi nung thành gốm.
Theo các ghi chép trong các tài liệu xưa, Thiên thanh nê từ xưa chủ yếu được khai thác tại các mỏ khai thác Hoàng Long Sơn ở thị trấn Đinh Thục. Trong sách "Dương Tiện minh hồ hệ" có ghi rằng: "Thiên thanh nê được khai thác ở Lê Dã" (Lê Dã là một phần của khu vực khai thác Hoàng Long Sơn trong quá khứ). Người ta nói rằng Đinh Sơn Đại Thuỷ Đầm ban đầu là một cái hố để khai thác khoáng tử sa và Thiên thanh nê đã từng được khai thác ở đây. Sau đó, quá trình khai thác đã đụng đến mạch nước ngầm và khu mỏ bị nhấn chìm, trở thành một vùng nước rộng lớn như hiện tại. Trong những năm gần đây, chính phủ Trung Quốc đã phát triển và cải tạo Đại Thuỷ Đầm thành một công viên để người dân thư giãn.
Vào những năm 1970, Nhà máy Xưởng Tử sa số 1 đã cố gắng tái tạo Thiên Thanh nê nhân tạo bằng cách phối trộn nhân tạo. Tuy nhiên, do các yếu tố như lựa chọn nguyên liệu và công thức, việc tái tạo Thiên Thanh nê nhân tạo đã thất bại. Người ta không thể xác định được loại khoáng Thiên thanh nê trong lịch sử là gì. Hiện tại, loại quặng được gọi là Thiên Thanh nê trên thị trường, là một loại đất quặng thô định hình, bề ngoài của khoáng sét có màu tím, xanh lam và xanh lục (Hình 4-11). Đây là loại khoáng đất sét được tạo ra ở lớp giữa ô nê (bùn đen) và tử nê ở trầm tích Tử nê ở núi Hoàng Long, dính chặt vào ô nê, bề ngoài có màu xanh lục với màu xám và kết cấu cứng, rất giống với Thanh khôi nê nhưng lại thiếu màu tím giống như thanh khôi nê.
Thành phần khoáng vật chủ yếu là hydromica, muscovit, kaolin, thạch anh và hematit. Thành phần hóa học chính và hàm lượng phần trăm của các mẫu được gửi để kiểm tra là: 62,05% silic điôxít (SiO2), 24,62% ôxít nhôm (Al2O3) và 8,27% ôxít sắt (Fe2O3). Canxi oxit (CaO) 0,68%, Magie oxit (MgO) 0,60%, Kali oxit (K2O) 1,77%, Natri oxit (Na2O) 0,24%, hiệu suất nung (LOI) 0,07%. Kết quả kiểm tra cho thấy hàm lượng sắt trioxit về cơ bản giống với các loại Tử nê khác, và đó đúng là Tử nê. Hàm lượng silic điôxít và ôxít nhôm tương đối cao, do đó nhiệt độ thiêu kết của Thiên thanh nê tương đối cao, phạm vi thiêu kết rộng và nhiệt độ thích hợp để hiển thị màu sắc màu lam là khoảng 1210°C.
- Tại 1170℃, nó có màu nâu vàng và một chút xanh lục (như trong hình 4-12), như màu của Lão nê, mặt cắt thô và âm thanh đục;
Tại 1190 ℃, nó là màu lục lam và hơi xanh lục (như hình 4-12), và mặt cắt thô., âm hơi xỉn;
- Tại 1210 ℃, xanh trong suốt, mặt cắt hơi thô và âm thanh hơi giòn.
Khoáng Thiên thanh nê cực kỳ ổn định nên độ co khi nung cũng rất nhỏ, chỉ khoảng 0,07%. Sự thay đổi màu sắc của Thiên thanh nê khi nung giống với Lão đoạn nê và cũng giống như Thanh khôi nê, chuyển từ nâu sang xanh lam. Lão đoạn nê có màu hơi vàng và xanh lam, xám xanh. Thanh khôi nê đầu tiên hơi xám đỏ, xám hơi nâu xanh. Thiên thanh nê cuối cùng chuyển sang màu xanh lục trong màu xanh lam. Hiệu ứng màu sắc của Thiên thanh nê có mối quan hệ nhất định với chất lượng của khoáng và nhiệt độ nung. Các tác phẩm Thiên thanh nê nguyên chất có kết cấu trong suốt, bên trong màu xanh lục, càng dùng càng xanh, trong lành và thông khí tốt, được mệnh danh là “ngọc lục cát tường”, được ưa chuộng bởi các nhà sưu tập. Sự thay đổi màu sắc trong quá trình nung và thay đổi khi sử dụng pha trà có thể được nhìn thấy từ Hình 4-13, 4-14 và 4-15.
SG, 29/07/2021
(Lão Tà - An Nhiên Tịnh Quán, dịch từ "Dương Tiện minh sa thổ" của Lưu Ngọc Lâm)