Khi nhắc đến Trà Nhật Bản thường đề cập đến trà xanh Nhật Bản, chẳng hạn như sencha, yulu, matcha và trà rang. Mặc dù một lượng nhỏ trà đen và trà ô long được sản xuất ở Nhật Bản trong những năm gần đây, nhưng trà xanh vẫn là loài lớn nhất. Ngoài Hokkaido và Osaka, trà còn được sản xuất ở các vùng khác của Nhật Bản.
Trong đó, diện tích sản xuất chè chiếm 40% tổng diện tích sản xuất chè của Nhật Bản là tỉnh Shizuoka, đứng thứ hai là tỉnh Kagoshima (vùng Kyushu), chiếm 20% diện tích sản xuất, chè Kagoshima chủ yếu được sử dụng làm là nguyên liệu pha trộn cho các lĩnh vực sản xuất khác. nên mức độ phổ biến trên thị trường không rộng rãi. Vị trí thứ ba là tỉnh Mie, nơi này hầu hết là Guancha. Ngoài ra, các khu vực sản xuất của Yulu tập trung ở Kyoto (trà Uji) và Fukuoka (trà Yame). Sencha được sản xuất ở tất cả các vùng sản xuất trà ở Nhật Bản, chiếm 60% tổng sản lượng trà, và nó cũng là loại trà được tiêu thụ phổ biến nhất ở Nhật Bản. Dựa trên sự phát triển khác nhau, sự phát triển văn hóa và lịch sử, các khu vực sản xuất khác nhau ở Nhật Bản đã tạo ra các kỹ thuật pha trà khác nhau và hình thành đặc trưng địa phương, tạo cho mỗi loại trà một hương vị và cá tính riêng.
Ngoài sự khác biệt về nguồn gốc và quy trình sản xuất của trà Nhật Bản, thời kỳ hái cũng là một tiêu chí quan trọng cho chất lượng của trà Nhật Bản. Dưới đây là mô tả các đặc điểm và danh pháp của trà trong các thời kỳ hái khác nhau.
Chè đợt đầu tiên (chè Ichiban): dùng để chỉ loại chè bắt đầu được sản xuất vào mùa xuân năm đó. "Chè mới" là đợt chè đầu tiên có vị ít đắng và chát, vị ngọt đậm, thời điểm này cho ra loại chè có chất lượng trà tốt nhất. Sản lượng chè lứa đầu chiếm khoảng 40 - 50% sản lượng cả năm.
Trà tám mươi tám đêm: dùng để chỉ loại trà được hái vào ngày thứ tám mươi tám (ngày 2 tháng 5) vào đầu mùa xuân. Do sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa ngày và đêm ở Nhật Bản vào tháng Tư, sương đêm thường xuất hiện, nhưng sau tám mươi tám đêm, thời tiết sẽ ổn định, người Nhật tin rằng trà hái trong thời kỳ này có hương vị rất cân bằng và hương thơm và chất lượng tốt. Nếu trà mới thu hoạch trong tám mươi tám đêm được coi là có tác dụng trường sinh bất lão thì giá tương đối cao.
Chè lứa thứ hai và thứ ba (lứa thứ hai và thứ ba): ám chỉ lứa chè thứ hai và thứ ba được hái trong năm đó. Chè lứa thứ hai được hái sau khi hái lứa thứ nhất 50 ngày, và lứa chè thứ ba được hái khoảng 30 - 40 ngày sau khi hái lứa chè thứ hai. Khi số lượng thu hoạch tăng lên, chất lượng sẽ giảm dần.
(Sưu tầm)