/Uống trà thôi
Tải ứng dụng
Trang chủ / Chia sẻ

VẦNG TRĂNG CỦA NGƯỜI XƯA CÓ GÌ KHÁC BIỆT?

2879 15:33, 21/09/2023
Team Uống Trà Thôi TRUYỆN TÍCH CỰC & SUY NGẪM

( từ)

VẦNG TRĂNG CỦA NGƯỜI XƯA CÓ GÌ KHÁC BIỆT?

Con người sống trong cảnh gió mát trăng thanh, có ai là không vui thích. Nhưng người bình dân thì chấp nhận nó như một hiện tượng muôn năm của thiên nhiên, an hưởng cảnh vui thú ấy như sự đời vốn thế, không có cái suy tư sâu lắng và rộng mở của thi nhân. Vậy cũng chẳng sao. Hãy cứ mượn ánh trăng muôn thuở để giãi bày chút tình trong đời người vô thường ngắn ngủi tan hợp hợp tan.


 

Ngắm trăng cũng là một cái thú, với điều kiện là lòng không lo buồn, tâm phải tĩnh lặng, đừng bàn thế sự, cấm tiệt chuyện làm ăn, chỉ nói chuyện trăng sao mây gió mà thôi, không gian yên tĩnh mới có thể khêu gợi nhã hứng. (Pickpik)


 

“Vầng trăng sáng có tự khi nào

Nâng chén rượu lên hỏi trời cao

Chẳng biết cung điện trên chốn ấy

Đêm nay đã là đêm năm nào”


Câu hỏi ấy của Tô Thức cũng là cái thắc mắc muôn thuở của nhân loại tự thuở hoang vu đất trời mới tỏ. Người xưa có câu: “Văn dĩ tải đạo”. Thi nhân, văn nhân xưa vốn là lớp người luôn nhạy cảm, thao thức với thời cuộc, nắm bắt những hơi thở vi tế nhất của thiên nhiên và lòng người. Do vậy, con chữ không chỉ là cuộc chơi của kẻ có học mà còn là chức trách của những người dẫn hướng tư tưởng của thời đại. Ánh trăng ấy đã làm mê đắm bao thế hệ thi nhân, cũng từ đó gây một nan đề trong nhận thức của con người về nguồn gốc của mình khi đứng trước cái mênh mông khôn cùng của vũ trụ.

Con người sống trong cảnh gió mát trăng thanh, có ai là không vui thích. Nhưng người bình dân thì chấp nhận nó như một hiện tượng muôn năm của thiên nhiên, an hưởng cảnh vui thú ấy như sự đời vốn thế, không có cái suy tư sâu lắng và rộng mở của thi nhân. Vậy cũng chẳng sao. Hãy cứ mượn ánh trăng muôn thuở để giãi bày chút tình trong đời người vô thường ngắn ngủi tan hợp hợp tan:

 

“Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi

Vốn đã quen gió mát trăng trong

Một vò rượu nếp vui gặp gỡ

Chuyện đời tan trong chén rượu nồng”

(Lâm Giang Tiên – Dương Thận)


 

Ánh trăng ấy đã làm mê đắm bao thế hệ thi nhân, cũng từ đó gây một nan đề trong nhận thức của con người về nguồn gốc của mình khi đứng trước cái mênh mông khôn cùng của vũ trụ. 


Cảm ơn trăng, đa tạ gió, các vị đã cho chúng ta những giờ phút khoái hoạt bên chén rượu nồng trong câu chuyện đời với bằng hữu. Thế cũng đã đủ sung sướng lắm rồi.

Cũng vầng trăng ấy, với tài tử Kim Trọng, giai nhân Thúy Kiều sau đoạn đời ly tán, chỉ muốn được sống trong cảnh:
 

“Khi chén rượu, khi cuộc cờ

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”


Vì xưa kia vầng trăng ấy đã bao lần tan hợp theo kẻ ở người đi:
 

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”


Đây là vầng trăng Nguyễn Du viết cho nàng Kiều, một thân phận ở trong cảnh “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” nên thấm đẫm cái nhân tình thế thái, bận rộn với những buồn thương của kiếp người.

Còn đây, trăng của Tô Thức lại khác, vì nó là thắc mắc muôn đời về sinh mệnh và vũ trụ. Thi nhân từ cõi người, qua ánh trăng mà gửi thắc mắc của mình lên thiên giới.
 

“Vầng trăng sáng có tự khi nào

Nâng chén rượu lên hỏi trời cao

Chẳng biết cung điện trên chốn ấy

Đêm nay đã là đêm năm nào”


 

Con người sống trong cảnh gió mát trăng thanh, có ai là không vui thích. 


Bốn câu thơ trên là ở trong bài “Thủy điệu ca đầu” của Tô Thức, tức Tô Đông Pha. Đêm Trung Thu năm Hy Ninh thứ 9 đời Tống Thần Tông (tức năm Bính Thìn 1076), Tô Thức uống rượu vui đến sáng, nhớ đến em trai, bạn văn, bạn tri kỷ là Tử Do (tức Tô Triệt) mà làm bài từ này.

Đêm ấy Tô Thức uống rượu say ngất ngưởng rồi múa may dưới bóng trăng, cũng múa bút mà gửi đôi lời nhắn nhủ lên trời cao. Phong cách ung dung tiêu sái ấy không kém gì Lý Bạch sống cách đó mấy trăm năm, người uống rượu say rồi nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà thác.

Thi nhân thắc mắc nơi thiên giới ấy đã là năm tháng nào như một người xa quê đã lâu ngày bất giác bồi hồi tự hỏi: “Quê nhà năm đó bây giờ ra sao?” Nhưng ký ức xưa giờ đã phai nhạt quá, cái tình người đã gắn bó với nhân gian quá nên thi nhân lại e trên ấy lạnh lẽo chẳng nóng ấm tình người.
 

“Ta muốn cưỡi gió bay lên vút,

Lại sợ lầu quỳnh cửa ngọc,

Trên cao kia lạnh buốt.”


Cho nên, nửa muốn lên tiên giới, nửa bị nhân tình kéo xuống nhân gian. Chỉ có thể ở nơi lưng chừng:
 

“Đứng dậy múa giỡn bóng

Cách biệt với nhân gian”


 

Đêm ấy Tô Thức uống rượu say ngất ngưởng rồi múa may dưới bóng trăng, cũng múa bút mà gửi đôi lời nhắn nhủ lên trời cao. 


Thi nhân ngậm ngùi với những bất toàn của kiếp người, với nỗi lòng của kẻ tài hoa bất đắc chí mà có lúc bên mình vắng lặng, đêm thu trăng sáng mà ngắm trăng, uống rượu, làm thơ một mình:
 

“Sao cứ biệt ly thì trăng tròn?

Ðời người vui buồn ly hợp,

Trăng cũng đầy vơi mờ tỏ,

Xưa nay đâu có vạn toàn.”


Xét ra trăng của Tô Thức trong “Thủy điệu ca đầu” vẫn là trăng của nửa người nửa tiên. Phần “tiên” trong thi nhân muốn bay lên cùng trăng, trở về nơi quê nhà của sinh mệnh, nhưng phần tình của “người” vẫn nặng nề kéo xuống.

Đến trăng của Lý Bạch mới là trăng của một tiên ông đích thực:
 

“Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương”


Lý Bạch vốn người Cam Túc, nhưng sinh trưởng ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long, thuộc Miên Châu, Tứ Xuyên. Cả cuộc đời Lý Bạch phiêu bạt giang hồ, có lúc làm đại trí thức, kẻ tài hoa siêu quần bạt chúng được ân sủng chốn cung đình, có khi bị thất sủng tìm vui ở giữa thế gian. Lý Bạch cứ đi, đi mãi, đi tìm đường trở về quê xưa trong Đạo và ghi lại hành trình ấy trong thơ. Nhưng thi tiên cũng có lúc chồn chân mỏi gối. Đấy là lúc thi tiên bâng khuâng khi gặp ánh trăng mê mẩn giữa một mái nhà tranh trong núi sâu rừng thẳm hay giữa quán trọ đời.


 

Nhưng thi tiên cũng có lúc chồn chân mỏi gối. Đấy là lúc thi tiên bâng khuâng khi gặp ánh trăng mê mẩn giữa một mái nhà tranh trong núi sâu rừng thẳm hay giữa quán trọ đời.


Hai câu đầu tả cảnh, lấy ánh trăng làm duyên cớ.

Hai câu sau tả tình. Ta nhận thấy sự ngạc nhiên của Lý Bạch khi thấy ánh trăng ở đầu giường. Người ngước mắt lên nhìn ánh trăng dịu dàng đằm thắm rồi cúi mặt lặng sâu trong niềm nhung nhớ. Hình như ta nghe có tiếng người khe khẽ thở dài. Hai câu thơ trên chính là một thể đối.

“Ngẩng đầu-->cúi đầu
Nhìn-->nhớ
Trăng sáng-->cố hương

Khoảng cách giữa cái ngẩng đầu và cúi đầu ấy chính là một niệm, một niệm đưa Lý Bạch về với cố hương xa tít tắp.

Điểm mấu chốt là cố hương nào? Cam Túc hay Tứ Xuyên?

Ta nhớ rằng, Lý Bạch không chỉ là một trí thức, một nhà thơ mà còn là một người tu Đạo. Ông còn được gọi là Thi Tiên, Tửu Tiên, Trích Tiên Nhân. Bạn văn Hạ Tri Chương thì gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (ông tiên bị giáng trần lưu đày). Cả cuộc đời Lý Bạch chẳng cầu công danh, chỉ muốn làm bạn với thiên nhiên sông núi và những tâm hồn khoáng đạt. Đấy là chí hướng của bậc tu Đạo thời xưa. Lý Bạch đã từng khắc khoải với nỗi buồn không về được tiên giới trong bài thơ nổi tiếng “Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân”.


 

Cả cuộc đời Lý Bạch chẳng cầu công danh, chỉ muốn làm bạn với thiên nhiên sông núi và những tâm hồn khoáng đạt. 


Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu:
 

Bỏ ta mà đi

Ngày của ngày qua giữ lại gì ?

-Chỉ lòng ta rối

Ngày nay ngày của bao phiền toái.

Vạn dặm gió thu cánh nhạn khơi

Lầu cao trước cảnh gợi say thôi

Kiến An thi tứ Bồng lai vận

Tiểu Tạ phong lưu nét tuyệt vời.

Hùng tráng ý văn đầy hứng khởi

Muốn lên trời thẳm nắm trăng soi

Rút đao chém nước trôi càng mạnh

Nâng chén tiêu sầu chẳng được vơi.

Trần thế con người chưa thỏa ý

Sớm mai tóc xõa lướt thuyền chơi.


Lý Bạch “muốn lên trời thẳm nắm trăng soi” vì “trần thế con người chưa thỏa ý”. Từ ý tứ ấy, thì cố hương đây không phải là Cam Túc hay Tứ Xuyên mà là nơi miền thượng giới. “Cố hương” lại chữ đối chữ với “trăng sáng”, nó phải mang tầm vóc tương đương, thì rõ ràng nó không phải là chốn nhân gian rồi.

Tất nhiên, lối thơ của người xưa là mượn cảnh mà tả tình, ngôn tại ý ngoại. Vầng trăng chỉ là hình tượng gợi nỗi nhớ cố hương của thi nhân ở nơi thiên thượng. Lý Bạch có lẽ không hẳn là người lữ khách nhớ nhà bình thường như suy diễn của hậu thế. Ông là tiên ông giáng trần (Thiên Thượng Trích Tiên) nhớ về cố hương ở chốn cao xanh thăm thẳm.


 

Lý Bạch có lẽ không hẳn là người lữ khách nhớ nhà bình thường như suy diễn của hậu thế. Ông là tiên ông giáng trần (Thiên Thượng Trích Tiên) nhớ về cố hương ở chốn cao xanh thăm thẳm. (Miền công cộng)


Có lẽ thừa hưởng cái tinh thần ấy của người xưa, một nhà thơ vĩ đại khác của xứ Việt là Tản Đà đã viết nên thi phẩm “Muốn làm thằng Cuội”:
 

Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Có bầu, có bạn, can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.

Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.


Tiếng thở dài chán nản của người bất đắc chí ư? Không, đó chỉ là nỗi tiếc nuối của người sinh sau đẻ muộn, muốn nối chí của người xưa nhưng thời thế nay đã khác.

Hình như vẫn là chị Hằng sáng tỏ của thời Lý Bạch, Tô Thức, nhưng quan niệm của thế gian nay đã khác rồi. Hậu thế đã không còn hiểu được tiền nhân, chỉ còn Tản Đà lạc lõng ở lại. Con người mang hồn của thời Đường, Tống, của muôn năm cũ ấy, hồn đã muốn bay về với cung Quế nhưng vì sinh nhầm thời nên thân xác nặng nề đành rơi rớt lại. Nên còn ì ạch mãi với thế gian. Vậy nên thi nhân đã nhỡ chuyến tàu lên cung Quảng Hàn với tiền nhân. Nên chán, nên buồn.

Cảm hứng của thi nhân xưa với ánh trăng quả là vô tận. Nếu bàn nữa có lẽ đến mùa Trung Thu sau cũng chưa hết. Người viết bài cũng chỉ mong chấm phá vài nét để trợ hứng bạn đọc trong mùa vui Trung Thu. Ngắm trăng cũng là một cái thú, với điều kiện là lòng không lo buồn, tâm phải tĩnh lặng, đừng bàn thế sự, cấm tiệt chuyện làm ăn, chỉ nói chuyện trăng sao mây gió mà thôi, không gian yên tĩnh mới có thể khêu gợi nhã hứng. Đặc biệt lại có ấm trà ngon, chậu hoa quỳnh đang nở thì còn gì bằng. Lúc ấy ta sẽ có thể họa may gần hơn với cảnh ý của người xưa để phần nào hiểu được những thông điệp từ quá khứ.

 

Mùa Trung Thu
Team Uống Trà Thôi sưu tầm

1 0 4,902 0.0
Đánh giá của bạn
1+
2+
3+
4+
5+
6+
7+
8+
9+
10+

Bình Luận

Đăng nhập để bình luận cho bài viết

Có thể bạn quan tâm

Về Sài Gòn hôm nay
Team Uống Trà Thôi TRUYỆN TÍCH CỰC & SUY NGẪM
723 18:20, 16/07/2021
2 0 13,446 10.0
Mọi việc sẽ ổn.
SG tôi ơi!
Nhầm
Team Uống Trà Thôi TRUYỆN TÍCH CỰC & SUY NGẪM
721 15:47, 16/07/2021
0 0 12,055 10.0
NHẦM!
Team Uống Trà Thôi sưu tầm

Đêm đã khuya, gã đàn ông quá say gõ cửa một căn hộ. Một người phụ nữ mở cửa, ngạc nhiên hỏi:
- Ôi anh, sao anh về trễ thế?
Gã đàn ông cúi đầu lắp bắp:
- Anh xin lỗi em, hôm nay gặp bạn bè vui quá nên anh về trễ, làm phiền đến em.
Người phụ nữ tươi cười đáp:
- Không ...
Ổ BÁNH MÌ TẨM THUỐC ĐỘC
Team Uống Trà Thôi TRUYỆN TÍCH CỰC & SUY NGẪM
718 09:52, 16/07/2021
1 0 13,230 0.0
Ổ BÁNH MÌ TẨM THUỐC ĐỘC :
Team Uống Trà Thôi sưu tầm

Một người đàn bà nướng bánh mì cho gia đình mình và làm dư ra một cái để cho người nghèo đói.
Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Hàng ngày, có một người gù lưng đến lấy ổ bánh mì.
Thay vì nói lời ...
NỮ GIÁM ĐỐC MẤT VIỆC CHỈ BỞI MỘT CÂU NÓI CỦA ÔNG LÃO QUÉT RÁC
Team Uống Trà Thôi TRUYỆN TÍCH CỰC & SUY NGẪM
716 09:15, 16/07/2021
1 0 11,647 0.0
NỮ GIÁM ĐỐC MẤT VIỆC CHỈ BỞI MỘT CÂU NÓI CỦA ÔNG LÃO QUÉT RÁC

Một nữ giám đốc cao quý gặp phải một “ông lão quét rác”, lại vì một câu nói của ông mà khiến cho người này mất việc, nguyên do chỉ bởi một thói quen không nên có của con người.

Một người phụ nữ hơn 40 tuổi sang trọng quý phái dẫn theo ...
Câu chuyện về cậu bé mua búp bê đắt tiền bằng 4 vỏ sò
Team Uống Trà Thôi TRUYỆN TÍCH CỰC & SUY NGẪM
715 09:01, 16/07/2021
0 0 12,556 0.0
Câu chuyện về cậu bé mua búp bê đắt tiền bằng 4 vỏ sò

Một cậu bé 6 tuổi cùng em gái 4 tuổi đi vào chợ. Bất chợt cậu phát hiện em gái mình bị tụt lại phía sau. Cậu dừng lại và ngoái lại nhìn…

Em gái cậu đang đứng trước một cửa hàng đồ chơi và chăm chú ngắm nhìn một thứ gì đó rất thích thú.
Cậu ...
GIỚI THIỆU CÁC TRÀ QUÁN
GIỚI THIỆU SÁCH HAY
×
Uống Trà Thôi
Chỉ 30s tải app cực nhẹ và trải nghiệm!