Ở đời điều gì bản thân không muốn thì chớ ép người khác phải làm
Cổ nhân giảng: “Vạn vật hữu linh“. Bất kể sinh mệnh nào, dù là thực vật hay động vật, đều có linh tính. Cũng lại có câu: “Nhân chi sơ, tính bản thiện“. Xét rộng ra, có thể hiểu rằng đặc tính bản nguyên của mọi sinh mệnh chính là thiện lương. Câu chuyện dưới đây càng minh chứng rõ hơn điều đó.
Có một vị giáo sư chuyên nghiên cứu về loài gà. Một ngày kia, ông phát hiện trong rừng có một con chim trĩ đẻ được khá nhiều trứng, liền lặng lẽ nhặt lấy mấy quả mang về. Vừa khéo lúc đó lại có một con gà mẹ cũng đẻ trứng, ông bèn lấy trứng của gà mẹ đi rồi bỏ trứng của chim trĩ rừng vào.
Gà mẹ nhìn thấy trứng không giống nhau, do dự một hồi, nhưng vẫn chấp nhận ấp những quả trứng lạ này, vừa điềm đạm lại vừa cẩn thận, cứ như là đang ấp trứng của chính mình vậy. Sau một thời gian, chim trĩ con nở ra, gà mẹ dẫn chúng vào trong rừng, dùng móng vuốt đào bới đất, tìm kiếm sâu bọ giữa đất và rễ cây, sau đó “cục…cục…” gọi mấy con chim trĩ non đến ăn.
Chứng kiến cảnh ấy, vị giáo sư hết sức ngạc nhiên. Lũ gà con vốn đều được cho ăn thức ăn nhân tạo, vì sao gà mẹ có thể biết được rằng chim trĩ con không ăn thức ăn chăn nuôi mà chỉ thích ăn giun dế? Giáo sư lại lấy một số trứng vịt cho gà mẹ ấp. Lại như lần trước, gà mẹ vẫn không quản nhọc sức ấp số trứng ấy nở ra vịt con. Sau đó, gà mẹ lại dẫn theo đàn vịt con đến bên hồ nước để chúng tập bơi lội.
Hai sự việc bất ngờ ấy giúp vị giáo sư chợt nhận ra một đạo lý. Loài gà vốn bị cho là “não nhỏ”, ngốc nghếch, không có tình cảm nhưng thực ra chúng vừa có tình thương, lại có trí tuệ. Gà mẹ không chỉ bao dung, ấp số trứng lạ không phải mình đẻ ra, mà nó còn hiểu được đặc tính của những con trĩ con, vịt con ấy rồi dẫn dắt chúng thực hành kĩ năng sinh tồn mà Thượng Đế đã ban cho.
Trong văn hoá truyền thống, loài gà không hề tầm thường. Người xưa coi gà là biểu tượng của người quân tử, là “ngũ đức chi cầm” (loài chim có 5 đức ): Văn, Võ, Dũng, Nhân, Tín. Trong “Tây Du Ký“, tác giả Ngô Thừa Ân cũng xây dựng hình tượng “Mão Nhật Tinh Quân” dưới hình dạng của một chú gà trống từng trợ giúp Tôn Ngộ Không trừ yêu quái rết. Nói chung, hình tượng con gà thường đi kèm với điềm lành, may mắn.
Lại nói về chuyện gà mẹ ở trên, con người trong hoàn cảnh ấy sẽ ứng xử khác biệt hoàn toàn. Rất có thể chúng ta sẽ bắt lũ vịt con học tiếng gà kêu, bắt chim trĩ rừng ăn thức ăn nhân tạo. Nghĩa là ta luôn muốn cưỡng ép người khác theo quan điểm, suy nghĩ của mình mà chẳng hề quan tâm tới cá tính, thói quen và sở thích của người khác. Những xung đột, hiểu lầm cũng bắt nguồn từ đây.
Người ta luôn muốn cưỡng ép người khác theo quan điểm, suy nghĩ của mình mà chẳng hề quan tâm tới cá tính, thói quen và sở thích của họ.
Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân“ (己所不欲勿施於人), nghĩa là: Điều gì bản thân mình không muốn thì chớ làm cho người khác. Người quân tử chính là như vậy, không ép buộc, cưỡng chế người khác, chỉ một lòng lấy thiện đãi người. Cả trong lễ nghi phương Đông và phương Tây, việc tôn trọng sở thích, quan điểm của người khác đều là biểu hiện của văn hoá, của sự thanh lịch.
Một đoàn thể có thể hài hòa ổn định hay không, then chốt chính là việc mỗi cá thể trong đoàn thể đó có thể tôn trọng, bao dung, lấy tấm lòng từ bi để đối đãi với nhau hay không. Nếu hãy còn tính toán, trách móc lẫn nhau thì khẳng định người ta sẽ không thể sống thanh thản dù chỉ một khắc.
Một con gà mái có thể lấy trí huệ của tình thương để đối đãi với loài vật có ngoại hình và tập tính sống khác biệt với mình. Là con người mà nói, chỉ có dùng dùng trí huệ thanh tịnh hóa giải tranh chấp, dùng thiện lương hoá giải hận thù, cuộc sống này mới có thể hoà hợp, viên dung, tươi đẹp hơn lên vậy.
Thiện Sinh biên dịch