Gốm men vàng, men lục, men trắng ngà, men ngọc, men lam xám, men nhiều màu… trước đây cứ ngỡ là xuất xứ của gốm thời Đường, Tống, Nguyên bên đất Trung Hoa, nay đã được định danh một cách cụ thể về niên đại, nguồn gốc là gốm Việt cổ.
Có nhiều nhận định về vẻ đẹp trong sắc men gốm Việt, riêng với gốm phủ men trắng ngà thời Lý, cái hồn và vẻ đẹp của từng sản phẩm chính là sự tối giản. Mang màu men độc sắc (màu trắng ngà), kết hợp với kỹ thuật tạo hình cùng một vài chi tiết điêu khắc, đắp nổi trên sản phẩm, nhưng với việc sử dụng chất đất mịn, xương gốm được chuốt mỏng đến mức thấu quang, phủ lớp men mỏng tang (men giấy) lên bề mặt, chân đế thon nhỏ, tạo cho dòng gốm Lý vẻ đẹp đầy tinh tế và quý phái. Từng hiện vật gốm men trắng ngà (một số hiện vật qua thời gian nước men nay đã ngả sang trắng vàng) thường khiến người diện kiến phải buột miệng khen ngay khi gặp. Để miêu tả vẻ đẹp ấy, chỉ có thể gói gọn bằng hai chữ “đơn giản”.
Qua thời Trần, gốm men màu Việt đã bắt kịp với sự phát triển của các kinh đô gốm sứ lớn trong khu vực, đặc biệt là màu men ngọc. Ở bình diện chế tác men ngọc, tương truyền hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu là Chu Thế Tông (921 – 959) sử dụng đồ ngự dụng men ngọc do lò Sài diêu (được ví ngang với ngũ đại danh diêu đời Tống là: Nhữ, Quan, Ca, Quân, Định) chế tác. Sách Đào Thuyết của Chu Đồng Xuyên tả về màu men ngọc của Sài diêu rằng: “Vũ quá thiên thanh vân phá xứ. Giả ban nhan sắc tác tương lai” (mây tan mưa tạnh trời xanh ngát, màu ấy về sau cứ vậy làm). Màu xanh của men ngọc Sài diêu còn được so sánh đến mức “phiến Sài trị thiên kim” (một mảnh Sài diêu đáng giá nghìn vàng).
Đến thế kỷ 10, người Cao Ly (Triều Tiên) sang Trung Hoa học nghề chế tác gốm men ngọc để cho ra dòng gốm “Cao Ly bí sắc”. Năm 1233, nghệ nhân Kato (Gia Đằng) người Nhật Bản cũng đến Trung Hoa học làm gốm men ngọc. Điều đó cho thấy dòng gốm này ngày càng trở nên thịnh hành trong xã hội đương thời.
Người Việt ở thời Trần bắt đầu chế tác gốm men ngọc, dù màu men chưa đạt đến độ trong và tinh khiết tới mức “vũ quá thiên thanh”, nhưng họa tiết ẩn hiện dưới lớp men huyền diệu ấy từng gây nhầm lẫn với các lò gốm phương Bắc. Khi giới sưu tầm và khảo cổ tìm được những hiện vật gốm men ngọc có khoản thức ghi rõ “Thiên Trường phủ chế”, từ đó xác định dòng gốm men ngọc với đủ chủng loại như chén, bát chân cao, ấm quả dưa, ấm rượu, hũ, liễn… có xuất xứ từ Nam Định, là đất phủ Thiên Trường.
Bảng màu men của gốm Việt tiếp bước với những dòng gốm men xanh lục, men nâu, men lam, men xám… trên sản phẩm gốm gia dụng.
Ở thời nhà Mạc (1527 – 1592), Lê trung hưng (1533 – 1789) gốm men lam xám, men nhiều màu (trắng ngà phối với xanh rêu)… định hình giai đoạn gốm đặc trưng, chú trọng vào chi tiết, sử dụng kỹ pháp tạo hình đỉnh cao của gốm Việt.
Màu men lam xám giản dị, trầm lắng, được thợ gốm tạo nên các sắc độ men đậm nhạt trên nền cốt thai mang đồ án trang trí đậm văn hóa dân gian như rồng, phượng, nghê. Những đường văn kỷ hà cùng lối tạo hình đầy tinh tế, biểu cảm và sự sang trọng trong từng hiện vật ở dòng men đặc trưng này đến mức tối đa, hiếm thấy trong phong cách chế tác gốm trước đó.
Ngoài dòng men độc sắc lam xám, gốm thời Mạc – qua thời Lê trung hưng còn có lối phủ men nhiều màu (trắng ngà, nâu và xanh rêu), còn gọi là men tam thái, men tam sắc. Trong đó, màu trắng ngà làm nền chủ đạo, điểm nâu và xanh rêu lên xương gốm không theo lối tô men định hình, dùng lửa nung tạo men chảy tự nhiên thành những vệt màu không đồng nhất, đem lại một vẻ đẹp rất duyên của dòng gốm men, sử dụng nhiều trong hiện vật mang mục đích thờ tự, tín ngưỡng.
Uống Trà Thôi
Theo elledecoration