
Từ lâu tôi đã muốn vẽ cây tỳ bà, nhưng mãi chưa có cơ hội. Cuối cùng cũng xin được một cành tỳ bà dại, tôi vội mang về nhà. Vì sợ hoa quả sau khi hái sẽ nhanh chóng tàn úa, nên tôi trước hết dùng bút pháp viết ý ghi lại trên tập sách để làm kỷ niệm.
Tiếp theo là giai đoạn quan sát sâu. Tôi dùng bút chì ký họa chi tiết, ghi lại từng đặc điểm của tỳ bà: thứ tự mọc của lá, hình dạng lá, đường gân lá và cách quả kết trên cành. Chỉ có như vậy mới có thể nắm bắt được sự tinh diệu của tạo vật.
Sau đó là khâu thiết kế những chú chim sẻ nhỏ. Tôi thích “di tình nhập vật”, bề ngoài có vẻ tả thực, nhưng kỳ thực đã lồng ghép thêm suy tưởng của mình. Khi vẽ côn trùng hay chim chóc, tôi đều dựng cho chúng một câu chuyện. Có câu chuyện mới có hứng vị, để người thưởng lãm tha hồ tưởng tượng, thậm chí biên kịch, nghĩ đối thoại, khiến bức tranh chuyển động, từ vô thanh thành hữu thanh.
Tôi vẽ năm chú chim sẻ, mỗi con một dáng, một cách bay khác nhau: có con đậu trên cành khoe rằng tỳ bà ngon quá; có con vội vã bay đến kêu “cho ta nữa với!”; có con đang vỗ cánh dừng lại giữa không trung, chuẩn bị tìm chỗ hạ xuống. Độ nghiêng cánh và chi tiết lông vũ đều phải đúng theo sinh thái. Thí dụ, lông cánh hơi hất lên, tức là nó đang nỗ lực đập cánh xuống.
Móng vuốt của chúng cũng được tôi dụng tâm thiết kế. Tôi từng làm giải phẫu, nên hiểu rõ cấu trúc và khớp của chân chim. Tôi chủ trương từ “quan vật tinh vi” đến “vật ngã lưỡng vong” – dù có phóng bút mạnh mẽ thế nào cũng phải trước hết hiểu sâu đối tượng miêu tả, không thể chỉ sao chép theo công thức. “Có thể quên, nhưng không được không biết.” Đồng thời, khi vẽ cũng phải nghĩ xem chúng sắp làm gì tiếp theo, để thiết kế cho đúng tư thế ở khoảnh khắc hiện tại.
Cả bức tranh tôi dùng bút pháp “mặc cốt” (không vẽ xương nét mà chỉ dùng màu), nhưng ở phía sau chim sẻ và tỳ bà – tức là mặt sau của lụa – tôi còn nhuộm thêm vài lớp màu đục để tăng cảm giác khối.
Lá tỳ bà vốn dày và cứng, nên có chỗ cần vẽ hai lần, có chỗ cố ý để hở khe nhỏ giữa các nét bút. Đặc biệt những chỗ bị sâu cắn nham nhở lại càng quan trọng, vì tạo nên sự biến hóa và thú vị cho toàn cảnh.
Thân cành có nơi dùng trung phong để tả, có nơi dùng trắc phong tạo hiệu ứng phi bạch, khiến cành cây đơn sơ cũng có nhịp điệu ánh sáng và sự biến hóa chất cảm.
Cuối cùng xin nói thêm: khi vẽ hoa điểu, tôi không dùng mực đen để thay cho màu sắc, vì vậy phải đặc biệt cẩn trọng trong việc bố trí nặng nhẹ, trước sau, và biến hóa sắc độ. Nhất là để những chiếc lá ở hậu cảnh mờ ảo thấp thoáng hiện ra, biểu hiện không gian ba chiều.
Tôi đã miệt mài suốt hai tuần lễ mới hoàn thành tác phẩm này, hy vọng mọi người sẽ thích!
Nguồn: Lưu Dũng- Là một hoạ gia, nhà thư pháp gia và tác giả nổi tiếng người Đài Loan.