Kỹ thuật Điều Sa
KỸ THUẬT ĐIỀU SA - PHÔ SA - TRỪU SANgoài việc kiểm soát các quy trình xử lý nguyên liệu khoáng Tử sa, kĩ thuật "Điều sa" - "Phô sa" và "Trừu sa" cũng có thể được sử dụng như những phương pháp đơn giản để tăng hiệu ứng màu của Tử sa.
Vào thời nhà Minh, Trần Trọng Mỹ (Chen Zhongmei) đã sử dụng phương pháp "Điều sa" và "Phô sa" để nâng cao hiệu quả trang trí trên bề mặt của những tác phẩm gốm Tử sa.
KỸ THUẬT ĐIỀU SA:
Trong khoáng tử sa sống hoặc bột đã qua xử lý, các hạt cát khác nhau có kích thước và môi trường nhất định được thêm vào tùy theo yêu cầu để tăng mật độ hạt. Các hạt được chuyển và khoáng tử sa thuộc cùng một vật liệu khoáng, được gọi là "Mộc sắc điều sa"; Các hạt được chuyển và khoáng nền không thuộc cùng một vật liệu khoáng và được gọi là "Dị sắc điều sa".
Cát tự nhiên được trộn vào khoáng gốc, do khoáng và cát có cùng chất lượng và đặc tính nên màu sắc của bề mặt sản phẩm sẽ không thay đổi và có sự tương phản đáng kể sau khi nung. Tuy nhiên, hàm lượng hạt trong khoáng gốc đã tăng lên, điều này chủ yếu đóng vai trò củng cố khung xương của phôi . Đối với một số hạt mềm, cần nung hạt ở 600 ~ 800 ° C để tăng cường độ, nếu không hạt dễ bị dụng cụ nghiền nát trong quá trình chế tác và gây ra hiện tượng dập bề mặt.
Ví dụ, tốc độ co ngót và biến dạng của vật liệu Chu nê tương đối lớn, điều này gây khó khăn cho việc chế tác các tác phẩm dung tích lớn, cần phải gia cố phôi sống bằng phương pháp điều chỉnh tỉ lệ co ngót và biến dạng tổng thể, tỉ lệ co ngót như vậy sau khi nung được giảm xuống, giúp cải thiện năng suất nung. Vì vậy, những sản phẩm dung tích lớn của Chu nê được thấy ở thời hiện đại hầu hết được trộn với các hạt cát thô hoặc được hỗ trợ bởi "Thục liệu" ("Thục liệu" là bột được tạo ra do nghiền đất sét thành phẩm sau khi nung).
Cát có màu sắc khác nhau sẽ tạo ra các hiệu ứng màu sắc khác nhau do màu sắc và chất lượng của các hạt và khoáng gốc khác nhau. Nếu chất lượng hạt tương đối cứng, các hạt trên bề mặt của thiết bị thiêu kết sẽ nổi rõ và trông giống như vỏ quả lê thô; khi chất lượng hạt tương đối mềm, bề mặt của thiết bị thiêu kết sẽ có các vết rỗ nhỏ. Hạt càng mềm, các vết rỗ càng rõ ràng, tạo thành hiệu ứng kết cấu giống như vỏ cam.
KỸ THUẬT PHÔ SA:
Phô sa đề cập đến các hạt cát có nhiều màu sắc khác nhau được rải, rắc,… rồi phủ lên bề mặt phôi sản phẩm khi phôi vẫn còn độ ẩm nhất định. Với sự hỗ trợ của các công cụ, các hạt cát được nhúng vào bề mặt của phôi. Phô sa chủ yếu đóng vai trò tô điểm, trang trí nên điểm cát và tông màu của họa tiết phôi hình thành trên bề mặt đồ gốm Tử sa thành hiệu ứng tương phản rõ nét. Chất lượng của hạt Phô sa nhìn chung cao hơn hoặc bằng chất lượng của hạt phôi sản phẩm. Nếu chất lượng mềm sẽ gây ra hiện tượng kéo đuôi của các hạt trong quá trình chế tác và hiện tượng không tương thích với chất lượng bề mặt tác phẩm do độ co của các hạt sau khi nung lớn.
KỸ THUẬT TRỪU SA:
Trừu sa là kỹ thuật để tách một phần nhất định của các hạt ra khỏi bột hoặc khoáng tử sa đã qua xử lý.
Ví dụ, các hạt 60-80 mesh được chiết xuất từ bột 40 mesh, để các hạt còn lại và vật liệu mịn được thiêu kết ra để tạo hiệu ứng tương phản rõ ràng giữa thô và mịn, đồng thời tạo ra một kết cấu mới.
"Điều sa", "Phô sa" và "Trừu sa" chủ yếu là các phương pháp chế biến khác nhau, mục đích của chúng là làm cho sản phẩm tử sa có hình dáng, màu sắc và hiệu ứng phôi phong phú và tự nhiên hơn. Phương pháp phân biệt Điều sa, Phô sa và Trừu sa rất đơn giản, nếu độ phân bố của các hạt bên trong và bên ngoài đồ dùng đồng nhất là "Điều sa", nếu độ phân bố của các hạt bên trong và bên ngoài không đồng nhất là "Phô sa".
( Lão Tà dịch từ KHOÁNG SẢN TỬ SA NGHI HƯNG).