Khoáng tầng Mễ hoàng đoạn nê ở Đại Triều Sơn
Mễ hoàng đoạn nê là một thuật ngữ mới trong Đoạn nê, hiện ít nhiều đang gây được sự chú ý, trước đây ít được dùng để làm ấm trà, những năm gần đây do nhu cầu lớn nên một số nguyên liệu đất sét Mễ hoàng đoạn nê chất lượng được sử dụng để làm các ấm tử sa. Mễ hoàng lục nê đang dần được công nhận và sử dụng. Sở dĩ có tên gọi là Mễ hoàng đoạn nê là vì bề ngoài của đồ gốm có màu xám nhạt, vàng nhạt, vàng hơn bạch nê và nhạt hơn đoạn nê, gần với màu be hơn. Mễ hoàng đoạn nê được phân bố về mặt địa chất ở phần dưới của Hệ tầng Thượng Wutong của Hệ thống kỷ Devon muộn; lớp quặng được tạo ra trong sa thạch thạch anh (Hoàng Thạch) ở sườn núi; nó phân bố theo địa lý và có mặt ở chân núi Sở Sơn ở làng Quan Đông , Đinh Thục trấn (Hình 6-33, 6-34) có trữ lượng tương đối phong phú. Quặng ban đầu có màu xanh lam nhạt, trắng nhạt (Hình 6-35, 6-36), dạng bột kết, cấu trúc dạng vảy, cấu trúc bùn cát. Bùn mịn hơn, đặc và không cứng. Thành phần khoáng chất của Mễ hoàng đoạn nê về cơ bản giống như thành phần của bạch nê, bao gồm kaolinit, sericit và một lượng nhỏ muscovit, bùn, mảnh vụn thạch anh, sắt và silic. Thành phần hóa học và hàm lượng phần trăm là: Sillic dioxide (Si02) 66,85%, oxit nhôm (Al2O3) 21,39%, oxit sắt (Fe2O3)1,95%, oxit titan (TiO2) 0,92%, magiê oxit (MgO) 0,46%, canxi oxit (CaO) 0,37%, natri oxit (Na2O) 0,12%, kali oxit (K2O) 2,43%, và độ co khi nung là 6,39%.
Mễ hoàng đoạn nê về bản chất là bạch nê. Bề ngoài, thành phần khoáng, thành phần hóa học và hàm lượng các thành phần của nó rất giống với Bạch nê. Sự khác biệt chính giữa bùn Mễ hoàng đoạn nê và Bạch nê là hàm lượng oxit sắt. Hàm lượng oxit sắt của Bạch nê tương đối thấp, thường từ 1% đến 2%. Màu sắc sau khi nung, độ bóng mỡ của Mễ hoàng đoạn nê bị chi phối bởi màu sắc của các thành phần sau khi nung, với nhiệt độ nung tăng lên, Mễ hoàng đoạn nê trở thành màu hồng, chuyển sang màu trắng và xám nhạt. Nếu hàm lượng ôxít sắt của Mễ hoàng đoạn nê gần bằng hoặc lớn hơn 2%, bề ngoài sau khi nung sẽ có màu vàng nhẹ hoặc vàng nhạt, khi tăng nhiệt độ màu sẽ vàng nhạt, chuyển sang vàng, vàng đậm, và màu vàng xanh; ôxít sắt Khi hàm lượng vượt quá 3%, màu có màu đỏ thịt hoặc đỏ sẫm, chuyển sang đỏ vàng hoặc cam, vàng nhạt, xám nhạt và xám.
Mễ hoàng đoạn nê nếu phân loại một cách chính xác, không phải là một loại Đoạn nê trong Khoáng tử sa. Khoáng đoạn nê thực sự là một mỏ cộng sinh của Lục nê và Tử nê, trong thành phần có chứa Tử nê ở mức độ lớn hoặc nhỏ, trong khi Mễ hoàng đoạn nê thuộc loại bạch nê, tính chất của nó gần giống với bạch nê, điểm khác biệt so với bạch nê chỉ là sự thay đổi màu khi nung do hàm lượng ôxít sắt khác nhau do chứa một phần Tử nê. Mễ hoàng đoạn nê tương đối mịn, đa số là hạt mịn, độ dẻo tốt, một số tính chất gần giống đất sét thường ( đất sét thường là loại đất sét có độ dẻo cao). Mễ hoàng đoạn nê có độ dẻo trung bình.
Mễ hoàng đoạn nê có hàm lượng silic điôxít và ôxít nhôm tương đối cao và nhiệt độ nung tương đối thấp (khoảng 1170°C) gần với đất sét thường, nhiệt độ nung tổng thể cũng cao hơn, hầu hết có thể đạt tới 1200 ° C. Màu sắc nung được thể hiện bằng các thay đổi màu vàng cam, vàng nhạt, vàng đậm và vàng xanh. Kết cấu cứng và âm thanh sắc. Mễ hoàng đoạn nê cao cấp có thể so sánh được với Bổn sơn lục nê. Tuy nhiên đa phần Mễ hoàng đoạn nê có màu nhạt, khó tạo ra sản phẩm chất lượng cao nếu không dùng thêm phẩm màu, tác dụng tổng thể không tốt bằng các loại khoáng tử sa khác. Vì vậy, những người có kỹ năng chế tạo khoáng phối chỉ sử dụng nó như một thành phần để làm các loại khoáng phối nhân tạo khác.
SG, 23/07/2021
(Lão Tà dịch từ sách "Dương Tiện minh sa thổ" - Lưu Ngọc Lâm