Vỉa quặng Tử nê
TỬ NÊ là loại quặng Tử sa quan trọng nhất trong số ba loại quặng Tử sa chính của Tử sa Nghi Hưng, và nó cũng là loại quặng được sử dụng sớm nhất và phổ biến nhất trong số các loại quặng Tử sa Nghi Hưng. Hơn 80% quặng Tử sa Nghi Hưng thuộc loại Tử nê. Lý do tại sao quặng đất sét Nghi Hưng được gọi là "đất Tử sa" có liên quan chặt chẽ đến Tử nê. Tử nê dùng để chỉ một loại đất sét gốm có bề ngoài chủ yếu là màu tím hoặc đậm hơn và gồm nhiều thành phần. Tử sa Nghi Hưng được đại diện bởi Tử nê, loại khoáng Tử sa thể hiện tốt nhất các đặc tính và vẻ đẹp của Tử sa Nghi Hưng đồng thời thể hiện sự quyến rũ của Tử sa. Màu tử nê đơn giản thô ráp, trầm mặc, sâu lắng giống như nam nhân trưởng thành, tràn đầy nam tính. Ấm trà tử sa bằng khoáng Tử nê chất lượng cao cho ấm trà hiệu ứng ấm, ẩm và bóng như ngọc sau khi pha trà, nức tiếng “ngọc tím, cát vàng”. Về mặt địa chất, Tử nê phân bố chủ yếu ở phần trên của hệ tầng Wutong, kỷ Devon thượng và phần trên của hệ tầng Cao Ly Sơn. Về mặt địa lý, mỗi khu vực mỏ ở Nghi Hưng đều có trữ lượng cao về tử nê trong mỏ. Tử nê thường bị vùi lấp trong lớp bùn núi sâu, là lớp xen kẽ trong lớp đá (Hình 4-1, Hình 4-2) nên được gọi là “đá trong đá”, “bùn trong bùn”. Núi Hoàng Long (gọi là Bổn Sơn) ở thị trấn Định Thục là khu vực khai thác của khoáng Tử nê chất lượng cao. Quặng tử nê của núi Hoàng Long thường được tạo ra trong lớp quặng giả nê số 3 với độ dày khoảng 8 mét. Thân quặng có dạng lớp mỏng và dạng thấu kính, độ dày từ hàng chục centimet đến vài mét. Lớp quặng thường thiếu tính ổn định và đôi khi không liên tục. Điều này chủ yếu là do địa chất của nếp đứt gãy Hoàng Long Sơn.
Sau khi tiến hành tổng phân tích thì thành phần khoáng chất chính của Tử nê là hydromica và chứa nhiều kaolinit, mảnh vụn thạch anh, muscovite, khoáng sét và một lượng nhỏ fenspat, hematit, v.v. Hàm lượng thạch anh và sắt cao, là một loại đá bùn bột chứa sắt, giống như sét, một phần có cấu trúc Porphyr. Các thành phần hóa học chính và hàm lượng được phát hiện trong các mẫu bùn tím được chọn là: silic điôxít (SiO2) 56,94%, ôxít nhôm (Al2O3) 20,71% và ôxít sắt (Fe2O3) 8,78%, ôxít canxi (CaO) 0,49%, magie oxit (MgO) 0,68%, kali oxit (K2O) 66%, natri oxit (Na2O) 0,06%, hiệu suất nung khoảng (LOI) 8,13%.
Một trong những đặc điểm của Tử nê là có độ dẻo tốt nhờ thành phần khoáng chất tự nhiên, thành phần hóa học và đặc điểm tính chất. Tử nê có thể được chế tác thành các sản phẩm với kích thước bất kỳ tùy theo nhu cầu mà không dễ bị biến dạng và nứt vỡ khi nung. Tử nê có thể được nghiền đến độ mịn nhất định, không cần kết hợp với các nguyên liệu thô khác, chỉ một nguyên liệu thô duy nhất có thể tạo thành nhiều loại gốm Tử sa. Thậm chí nếu kết hợp với các loại gốm có màu tím khác vật liệu đất sét sét, hoặc với các quặng đất sét khác có nguồn gốc tự nhiên của Tử sa Nghi Hưng thì thành phần khoáng chất, thành phần hóa học và các đặc tính của sản phẩm về cơ bản sẽ không thay đổi, nhưng màu sắc và đặc điểm ngoại hình sẽ thay đổi. Nhìn chung, Tử nê là loại đất sét dẻo trung bình với giới hạn lỏng là 26,37%, giới hạn dẻo là 16,19% và chỉ số dẻo là 10,18.
Thứ hai là độ thoáng khí tốt. Hàm lượng thạch anh trong Tử nê tương đối cao, thạch anh cùng tồn tại với sét, mica, hematit,… và được gọi là “nê cốt" (xương của đất sét) , tức là “cát” (sa) của đất sét Tử sa. Các hạt thạch anh trong Tử nê có kích thước hạt lớn, hạt lớn hơn 0,01mm chiếm hơn 70%, hạt có kích thước lớn và các lỗ rỗng hình thành sau khi làm gốm cũng lớn nên thoáng khí, dễ thấm khí hơn và có tính bền, bề mặt có kết cấu cát.
Thứ ba là độ ổn định tốt. Phạm vi nhiệt độ thiêu kết của Tử nê tương đối cao, nhiệt độ thiêu kết là 1200°C, khoảng nhiệt độ thiêu kết lớn hơn 100°C, tỷ lệ co ngót tổng thể nhỏ, dưới 10%.
Tử nê không phải là một khái niệm chỉ một loại khoáng vật đơn lẻ, nếu phân loại theo nguồn gốc, hình dạng, kết cấu và màu sắc thì có không dưới một trăm loại. Đại bộ phận Tử nê không có tên cụ thể, nguyên nhân là do đặc tính của nó cơ bản giống nhau. Trước đây, bộ phận sản xuất của Nhà máy Tổng hợp Nguyên liệu Gốm Nghi Hưng đã sử dụng phương pháp phân tích thống kê nguyên liệu quặng đất sét gốm khai thác được để gọi một số ít quặng Tử nê có chất lượng khoáng đất sét tốt hơn là “ Nhất hiệu Tử nê”, và các loại khác có đặc điểm và chất lượng tương gần tương đồng được gọi là "Nhị hiệu Tử nê". "Nhất hiệu Tử nê" được giới hạn ở một số khoáng Tử nê chất lượng cao như Đáy tào thanh, trong khi "Nhị hiệu tử nê" bao phủ một phạm vi rộng hơn và hầu hết chúng vẫn chưa có tên gọi riêng xác định. Một số ít được đặt tên ở dựa trên đặc điểm ngoại hình và hiệu suất của chúng. Các tên gọi như trung tào thanh, lão tử nê, hồng tông nê, hồng ma tử... Hầu hết quặng tử nê có màu đỏ tím, nâu tím, xanh lam, xanh tím (xem Hình 4-3, Hình 4-4, Hình 4-5)... nguyên nhân chủ yếu là do môi trường trong quá trình lắng đọng, là sự oxy hoá của môi trường hoặc do sự oxy hoá của không khí gây ra.
Sau khi nung, Tử nê có màu nâu, màu tím bần, màu gan lợn, màu gan sẫm... Với nhiệt độ nung khác nhau, màu sắc chuyển từ nâu đỏ sang đỏ tím, tím, đen (Hình 4-6)). Do có sự khác biệt về chế tác, hàm lượng các thành phần và mức độ nhiệt độ nung góp phần tạo nên các tác phẩm tử nê và tạo nên sức hút riêng cho các tác phẩm tử nê.
(Lão Tà dịch từ "Dương Tiện minh sa thổ" của Lưu Ngọc Lâm)